Tôi ra sống ở đây với gia đình từ năm 1961, học
trường Tiểu học Tiến Đức, nhà tôi ở cuối xóm, dọc theo đường rầy,gần một khe nhỏ,
bên cạnh là nhà chị Thu Vang, vợ của anh Trần Đình Thái, trong khuôn viên nhà
chị Thu Vang, còn có gia đình chị Lý, Sự từ Gio Linh vào,phía sau có nhà bạn ,
tên là Động, giờ không biết ở đâu, đối diện phía bên kia đường rầy là nhà Ông Chít, làm nghề Y tá, Ông có một
người con gái tên Nhung, học trường Bồ Đề nổi tiếng là hoa khôi thời đó. Nếu các
anh là lính Trung Đoàn 1, Công Binh, Pháo Binh, Thiết Giáp đồn trú quanh vùng đó
đều biết Cầu Lòn là tụ điểm cờ bạc trong những ngày gần Tết và sau Tết, đó là
trò chơi Bầu, Cua,Cá, Tôm bày dọc đường rầy, có một năm, Lộc chỉ có 1 đồng bạc,
chơi bầu cua ăn được 500 đồng, nhưng sau đó đánh cũng thua hết, trong dịp này tôi
thường thấy ông già, hình như ông ở vùng Thach Hãn, chạy chiếc xe đạp, có một
giỏ đựng đâỳ thuốc lá và vài xấp vé số kiến thiết, ông thường rao to “ Ai mua thuốc
lá Quân bọp bụ, vé tức cười không”.Một món trò chơi khác, có vẻ ăn thua đỏ đen
hơn, đó là món xóc dĩa, bên chẳn, bên lẻ, nhiều người
tàn gia bại sản về món ăn chơi này,như hai câu thơ ở dưới:
Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết đem thân vào tù.
Từ Thạch Hản hướng về Thánh Địa La Vang, đi
qua ngã tư Quốc Lộ 1, qua khỏi nghĩa đia khoảng nửa cây số, đây là chổ bắt đầu
lên dốc, bên phải là đất nghĩa địa, được dời đi chỗ khác, để lấy đất đắp làm bờ
dốc tạo thành môt con đường mới, tráng nhựa với độ dốc khoảng 10-15 độ tính từ
chân tới cầu ,hai mố cầu bằng bê tông cốt thép được lắp đặt song song với đường
rầy, trên hai mố cầu này đươc đặt lên những dầm bê tông cốt thép,và được phủ bởi
nhựa đường và bê tông, hai lan can cũng được đúc bằng những côt bê tông nhỏ để
giữ an toàn cho người đi bộ cũng như người lái xe khi đi qua cầu này , xin xem hình
ở dưới:
Vùng
đất để lấy đất đắp, tạo nên một cái hồ lớn, một góc hồ được Ông Nghêu xây lên một
cái nhà sàn, giống như một nhà thủy tạ, dưới nuôi heo suốt ngày kêu ục ịch. Thời
đó, chính quyền bắt thanh niên phải gia nhập Nhân dân Tự vệ, tôi cũng dính, không
đươc miễn, dù năm đó đang học lớp 11, chuẩn bị thi tú tài 1, khi làm lính bất đắc
dĩ này,thỉnh thoảng tôi được phân công trực gác tại địa điểm này, một địa điểm đáng
nhớ trong thời binh lữa thời bấy giờ, vào khoảng năm 68-69 và luôn luôn nhớ như
bài thơ tôi sáng tác ở dưới.
Nhớ
Nhân Dân Tự Vệ
Nhớ đồ
đệ Xạ Nghêu
Nhớ võng
treo trên gác
Nhìn
xa xa man mác
Đàn
heo con ngũ dưới
Súng
grant trên gác
Bảo vệ cái gì đây
Hỏi trời, đất có biết
Cảnh tình đời thế sự
Xin
hai chữ bình yên
Thanh niên thời ly loạn
Khủng
hoảng với cảnh này!
Giờ xin các bạn định hướng để về Cầu Lòn,thực
ra có hai hướng để về từ thị xã Quãng trị, một là chạy theo đường Trần Hưng Đạo
vào hướng ga Quảng trị chạy dọc theo theo đường đất , song song với đường rầy,
qua khỏi xóm nhà bên phải, có nhà Võ Quê, Thái Đào, đi một đoạn nữa, bên trái là
nghĩa địa, bên phải là đường rầy, thì tới Cầu Lòn, chỉ có xe đạp, xe gắn máy và
người đi bộ qua dưới gầm cầu, xe hơi không thể qua được,qua khỏi gầm cầu là nhà
bà Thao phía bên trái, bên phải là nhà ông Xạ Nghêu và tới cuối cùng dọc đường
rầy của xóm là nhà tôi.
Nhà tôi
đất khá rộng, chung quanh hàng rào trồng bằng cây dứa, có gai, đọt non có thể ăn
được, lá có thể cắt ra làm chong chóng cho con nít chơi, rễ cắt ra làm bốn, phơi
khô, có thể bện lại thành một dây gàu múc nước, hang dứa làm cho tránh trâu khỏi
đi vào phía trong sân,tuy nhiên trâu cũng hay cạ lưng vào đây để đở ngứa,bên
trong có ba bụi tre rất lớn, gia đình tôi thường lấy mụt măng, lột vỏ, cắt ra từng
mảnh nhỏ, luột chín nhừ, vớt ra rồi dùng dầu phụng để xào với tỏi, nấm mối,ớt, dù
không có thịt nhưng vẫn ngon đáo để,hoặc làm măng chua để nấu canh với cá đồng,
món ăn thật là tuyệt, đối với gia đình tôi vào thời đó,môt cái sân đằng trước rộng,
thường để gốc củ sắn, gốc này để lâu ngày gần mục, nấm mèo mọc lên từ đó, ngoài
gốc sắn ra còn cóc gốc cây sim được đào bới từ rừng về, than đốt lò từ gốc cây
sim rất là tốt và lâu tàn,có một lần có một con rắn học trò ở trong đống gốc đó
bò ra, cậu Phước con bà Ngại đập chết,tự nhiên nhiều con rắn khác bò ra bu
quanh con rắn chết đó, thật là một hiện tượng lạ lùng mà tôi chưa từng gặp,vì
không thể có rắn nhiều trong cùng một lúc như vậy được, phải có một sự huyền bí
nào đây, tôi đã liên tưởng như chuyện con rắn trong câu chuyện trả thù công thần
Nguyễn Trãi, dưới thời vua Lê Lợi, bị tru di tam tộc, ảnh hưởng đến ba đời, bởi
vậy tôi liền nói cậu Phước ra chắp tay cầu khấn về sự ngỗ nghịch của mình và
xin tha thứ, môt lúc sau bầy rắn biến mất. Mỗi lần sau khi đi học về, tôi thường
hay tụ tập bạn bè, trong đó có Phước, Lộc, Thọ em của chị Thu Vang, Động ở đằng
sau, Tý ở bên kia đường rầy, và chị Khâm ở thuê trong nhà,quay quần bên một cái
bàn sắt mỗi bề khoảng 60 cm,bày bộ bài Tây tú lơ khơ ( Playing Card) để chơi Xì
dách, Xì tố, dù một ván một đồng hoặc chỉ tố đến 5 đồng là tối đa, nếu xui chơi
cả buổi cũng mất vài chục, hâu quả của nó còn mang lại dư âm đến bây giờ là vết
sẹo trên má tôi, có một lần khi chơi bài với Đô, Cóc, Yến. Đô bấm bài làm dấu
trên góc của con Xì Ếch,tôi phát hiện được, rồi gây gổ nhau, Đô lấy cái gào nước
có dây quay vào mặt tôi,làm sưng mấy ngày mới hết, lúc đó tôi tức quá tôi chạy
ra đường rầy lượm cục đá,ném trở lại vào đứa em của Đô, Cóc bị viên đá trúng vào
miệng phải chạy về nhà, về sau với thương tích hai bên đều có,bị qua bị lại nên
cũng huề .Nhớ lại thời đó với đam mê cờ bạc đã qua đi, môt kỹ niệm khó phai mờ
trong ký ức dù tuổi đời đã chông chất.
Nhà tôi
gần bên một cái lạch, có một khoãng đất rộng nằm sát đường rầy và có con đường
dốc nhỏ, có một lần Ông Phiến, nhà ông ở trên xóm cát, sát bên hông Trung Đoàn
1, ông có một chiếc xe xích lô, thường chạy ở thị xã Quãng Trị, có một buổi trưa
ông đậu xe ở bãi đất trống bên cạnh nhà tôi, vì cái cầu nhỏ không thể mang chiếc
xích lô về nhà,tình cờ chiếc xích lô lao xuống hố nước sát cạnh nhà tôi, bởi vì gió hay bởi một gả nghịch ngợm nào đó.
Đặc biệt ở Cầu Lòn, mỗi nhà đều có hầm trú ẩn, để tránh
pháo kích, hầm được được đào sâu dưới lòng đất, to nhỏ tùy theo chủ nhà, hầm có
thể làm trong nhà hoặc ngoài vườn, trên hầm được gác ngang bởi những tà vẹt đường
rầy,bên trên lót ván hay tôn, sau đó chất bao cát lên trên và xung quanh, chỉ
chừa một lỗ làm bậc thang đi xuống, mỗi lần nghe còi hú trong đồng là lật đật bò
xuống hầm, khoảng nửa tiếng hoặc một tiếng, không nghe súng nỗ lại bò lên. Sống
trong vùng lữa đạn lúc nào cũng hồi hộp, lo âu.sống đó, chết đó chẳng biết đằng
nào mà mò, chỉ cầu ơn trên phò hộ và ban phước lành. Sau này, có gia đình anh
Nguyễn quang Thơ và chị Năm cũng ở trong nhà, sau biến cố 72, mỗi người mỗi ngã,và
sau gần 40 năm mới gặp lại ở Hội Ngộ Đồng Hương tại Boston, Massachusetts năm
2012
Một hướng
khác về Cầu Lòn, là từ Thị Xã qua ngã Quang Trung, tới ngã tư có trường Nguyễn
Hoàng quẹo phải dọc theo đường Thạch Hản, một con đường có rất nhiều dân học sinh
Nguyễn Hoàng trú ngụ, như Trần văn Hảo, Trần thị Sáo, Trần phong Dũng, Ngô Mậu
Dũng, Bùi Truyền, Bùi Bá,Nguyễn Vang gần tiệm sửa xe đạp Công Tâm,bên cạnh có
con hẻm đi vào nhà Lê thiện Thuyết. Sau khi qua khỏi ngã tư Quốc lộ 1, qua khỏi
khu nghĩa địa thì đến chân dốc đường lên cầu, muốn vào xóm Cầu Lòn phải rẽ trái,
tại chỗ mép đường có nhà bạn tên là Ruộng học Trung Học Bồ Đề, có sáu ngón, trước
mặt nhà Ruộng có một cái giếng chung, trong xóm đó tôi cũng có vài người bạn,
như là Hoa con bà bán chè, đặc sản chè của bà, có món chè đậu ván đặc sền sệt,
ngon hết chỗ chê, lúc nào cũng hết trước so với các món chè khác. Ngoài ra còn
có Nguyễn Công Hiệu, một người bạn thân nhất, một giáo viên dạy Vạn Vật lớp 12
tại Đà Nẳng , nay đã nghĩ hưu, chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc từ khi vào học
trường Nguyễn Hoàng cho đến bây giờ, thời đó tôi tưởng Hiệu được lọt vào mắt
xanh của Lụa con bà Thao,môt người con gái đẹp thùy mỵ,có mái tóc dài che khuất
bờ vai, người thon gầy cao ráo, dáng đi thướt tha khi mặc áo dài trắng, tung tăng
bên đám bạn nữ sinh khác,hoặc đạp xe đạp chạy thường ngày qua con đường nhỏ hẹp.
Bây giờ
xóm nhỏ Cầu Lòn không còn nữa, đường rầy được tái dựng lại, sạch sẽ, có kỹ thuật
để cho tàu lửa qua lại suốt ngày, hai bên đường không còn nhà san sát, không một
tiệm tạp hóa, không một bóng người nào qua lại,thay vào đó những bụi chuối, những
hàng cây lạ và một mái nhà của ai đó đươc dựng lên sau biến cố 75, cảnh củ người
xưa đâu còn nữa, chỉ còn là kỹ niệm.
Nguyễn Huế